Cha mẹ có quyền chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất cho con, tuy nhiên trong một số trường hợp thì pháp luật lại không cho phép sang tên Sổ đỏ. Vậy đó là những trường hợp nào?
- Bộ Công an yêu cầu gỡ bỏ kênh Youtube của Khá “bảnh” và Dũng “trọc”
- Đã bắt được “nữ quái” cướp 2,1 tỷ đồng từ Ngân hàng tại TP HCM
- Hưng Vlog tiếp tục bị xử phạt hành chính vì đăng clip nhảm nhí
3 trường hợp không được sang tên sổ đỏ cho con nhất định phải biết
Một sinh viên Cao đẳng Dược – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur ghi nhận, theo quy định pháp luật về đất đai hiện hành, trong 3 trường hợp sau đây cha mẹ không được quyền chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất cho con (sang tên sổ đỏ cho con). Cụ thể:
Trường hợp 1: Khi cha mẹ không đủ điều kiện sang tên sổ đỏ
Căn cứ khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
– Có Giấy chứng nhận, trừ 02 trường hợp:
+ Quy định tại khoản 3 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013
Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì người nhận thừa kế không được cấp Giấy chứng nhận nhưng được quyền chuyển nhượng, tặng cho.
+ Quy định tại khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013
Trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được chuyển nhượng, tặng cho khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận theo quy định Luật Đất đai năm 2013.
Theo đó, khi cha mẹ nhận thừa kế quyền sử dụng đất dù đất đó chưa có Giấy chứng nhận nhưng đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận thì được sang tên cho con.
– Đất không có tranh chấp;
– Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
– Trong thời hạn sử dụng đất.
Theo đó, nếu thiếu một trong các điều kiện trên thì cha mẹ không được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất cho con.
Khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013
Trường hợp 2: Khi con không trực tiếp sản xuất nông nghiệp
Khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa”
Theo quy định trên, trường hợp con không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa từ người khác, kể cả cha mẹ.
Căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 3 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT, khi đăng ký nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa của hộ gia đình, cá nhân thì cơ quan có thẩm quyền sẽ xác nhận hộ gia đình, cá nhân có trực tiếp sản xuất nông nghiệp hay không.
Chỉ khi người con không thuộc đối tượng được hưởng lương thường xuyên, đối tượng đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp xã hội thì mới được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa từ cha mẹ (dù không được nhận chuyển nhượng, tặng cho nhưng vẫn được nhận thừa kế).
Trường hợp 3: Khi con không sinh sống trong rừng phòng hộ
Theo khoản 4 Điều 191 và Điều 192 Luật Đất đai năm 2013, trường hợp cha mẹ có quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng nhưng người con không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó thì không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất.
Trên đây là những trường hợp mà pháp luật quy định cha mẹ sẽ không được sang Sổ đỏ cho con. Tuy nhiên với trường hợp hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp và không sinh sống trong rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì chỉ ảnh hưởng đối với việc chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất, việc nhận thừa kế quyền sử dụng đất vẫn được áp dụng trong 2 tình huống này.
Nguồn: vpluatsu.org – Tổng hợp